Trong số các nhà tư tưởng và nhà nghiên cứu nổi tiếng đã khám phá tiềm năng của những trải nghiệm thay đổi tâm trí của ảo giác là Alan Watts, Timothy Leary, Ralph Metzner và Ram Dass. Một số báo cáo của họ đã được công bố Trên Tạp chí Psychedelic Review, một tạp chí quan trọng vào thời điểm đó.
Lịch sử
Trong những năm 1950, các phương tiện truyền thông chính thống đã cung cấp nhiều báo cáo về nghiên cứu VỀ LSD và việc sử dụng NÓ ngày càng tăng trong tâm thần học. Sinh viên đại học tâm lý học đã lsd, gần như tình cờ, như một phần của nghiên cứu của họ và báo cáo về tác dụng của nó. Từ năm 1954 đến Năm 1959, Tạp chí Time đã xuất bản sáu báo cáo miêu tả LSD dưới ánh sáng tích cực.
Tính đến giữa những năm 1950, các nhà văn Như William Burroughs, Jack Kerouac và Allen Ginsberg đã dùng ma túy, bao gồm cả cần sa và Benzedrine, và viết về họkinh nghiệm, nâng cao nhận thức và phần lớn phổ biến việc sử dụng chúng. Vào đầu những năm 1960, những người ủng hộ việc mở rộng ý thức nổi tiếng như Timothy Leary, Alan Watts và Aldous Huxley đã ủng hộ rộng rãi việc sử dụng LSD và các ảo giác khác, ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi trẻ.
Ảnh Hưởng Văn Hóa
Những năm 1960 chứng kiến sự xuất hiện lớn của lối sống ảo giác Ở California, đặc biệt Là Ở San Francisco, nơi có nhà máy lsd ngầm lớn đầu tiên. Một số nhóm người ủng hộ LSD đáng chú ý cũng xuất hiện Ở California. Những Người Chơi Khăm Vui vẻ, đã tài trợ Cho Các Bài Kiểm tra Axit, một loạt các sự kiện như chương trình ánh sáng, chiếu phim và âm nhạc ngẫu hứng của Người Chết Biết Ơn, tất cả đều trải qua dưới ảnh hưởng của LSD. Những Người Chơi Khăm đã đi LƯU DIỄN ở MỸ và có tác động lớn đếnphổ biến LSD.
Cũng trong những năm 1960, sự hấp dẫn của Các sinh viên Berkeley và các nhà tư tưởng tự do Đến San Francisco đã mang lại sự nổi lên của một cảnh âm nhạc bao gồm các câu lạc bộ dân gian, quán cà phê và đài phát thanh độc lập. Văn hóa ma túy hiện có giữa các nhạc sĩ jazz và blues, bao gồm cần sa, peyote, mescaline và LSD bắt đầu phát triển giữa các nhạc sĩ dân gian và nhạc rock.
Cùng thời đại đó chứng kiến các nhạc sĩ dần dần đề cập rõ ràng hơn đến loại thuốc này và phản ánh trải nghiệm LSD của họ trong âm nhạc của họ, giống như nó đã được phản ánh trong nghệ thuật ảo giác, văn học và điện ảnh. Xu hướng này phát triển song song cả Ở MỸ và ANH như một phần của các cảnh dân gian và nhạc rock có ảnh hưởng lẫn nhau. Khi nhạc pop bắt đầu kết hợp âm thanh ảo giác, nó đã trở thành một thể loại chính thốngvà lực lượng thương mại. Đá ảo giác đã ở đỉnh cao vào cuối những năm 1960, và là âm thanh phổ biến của nhạc rock và đóng vai trò là yếu tố chính của văn hóa ảo giác như được thể hiện trong các lễ hội và sự kiện như lễ hội Woodstock lịch sử năm 1969, nơi tổ chức hầu hết các nghệ sĩ ảo giác lớn, bao gồm Jimi Hendrix, Janis Joplin, Jefferson Airplane và Santana.
LSD đã được lên kế hoạch và thực hiện bất hợp pháp Ở MỸ và ANH vào năm 1966. Vào cuối những năm 1960, các nhạc sĩ phần lớn đã từ bỏ ảo giác. Một vụ giết người nhiều lần được thực hiện bởi Các thành viên Của Gia Đình Manson bị cáo buộc với âm thanh của Các bài hát Beatles cùng với sự đâm chết người của một thiếu niên Da đen Meredith Hunter Tại Buổi Hòa Nhạc Miễn Phí Altamont Ở California đã góp phần chống lại văn hóaphản ứng dữ dội.
Nền
Ảo giác, còn được gọi là chất gây ảo giác, là một nhóm các chất thần kinh làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc. Chúng đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ bởi các nền văn hóa bản địa cho mục đích tâm linh và y học, nhưng phải đến thế kỷ 20, chúng mới bắt đầu được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trong văn hóa Phương tây.
LSD
Một trong những ảo giác nổi tiếng nhất là axit lysergic diethylamide (LSD), được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1938 bởi Nhà hóa Học Người Thụy sĩ Albert Hofmann. Hofmann đã phát hiện ra các đặc tính ảo giác của nó vào năm 1943 và nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào những năm 1950 và 1960 như một công cụ để trị liệu tâm lý và khám phá cá nhân.
Trong thời gian này, nhiều nhân vật đáng chú ý, bao gồm Các nhà văn Aldous Huxley và Allen Ginsberg, vàNhà tâm lý Học Timothy Leary, bắt đầu thử nghiệm VỚI LSD và các ảo giác khác. Họ phổ biến việc sử dụng ảo giác như một phương tiện để đạt được giác ngộ tâm linh và mở rộng ý thức của một người.
Nghiên cứu và trị liệu
Một trong những nghiên cứu sớm nhất về tiềm năng điều trị của ảo giác được thực hiện bởi bác sĩ tâm thần Và nhà phân tâm Học Tiến Sĩ Humphry Osmond vào những năm 1950. Osmond và nhóm của ông đã quản lý LSD cho những bệnh nhân nghiện rượu và phát hiện ra rằng nó đã giúp nhiều người trong số họ vượt Điều này dẫn đến các nghiên cứu sâu hơn về việc sử dụng ảo giác trong điều trị nghiện và các tình trạng sức khỏe tâm thần khác.
Vào những năm 1960, Nhà tâm lý Học Tiến Sĩ Stanislav Grof và các đồng nghiệp của ông bắt đầu sử dụng LSD trong các buổi trị liệu tâm lý để giúp bệnh nhân mắc bệnhnhiều tình trạng khác nhau, bao gồm lo lắng, trầm cảm và rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD). Grof phát hiện RA RẰNG LSD đã giúp bệnh nhân tiếp cận các vấn đề tâm lý và cảm xúc sâu sắc khó tiếp cận thông qua các phương pháp trị liệu truyền thống.
Trong thời gian này, nhiều nghệ sĩ, nhà văn và nhạc sĩ cũng bắt đầu thử nghiệm với ảo giác, coi chúng như một cách để khai thác sự sáng tạo của họ và có được những quan điểm mới về thế giới. Cuốn sách "Doors Of Perception" của Aldous Huxley đã trình bày chi tiết những trải nghiệm của anh ấy với mescaline, và Bài hát "Lucy in The Sky with Diamonds" Của The Beatles được cho là lấy cảm hứng từ LSD.
Tuy nhiên, khi việc sử dụng ảo giác trở nên phổ biến hơn, những lo ngại về sự an toàn và tiềm năng lạm dụng của họ đã dẫn đến việc họ bị hình sự hóa Ở Hoa kỳ vàdo đó ở nhiều quốc gia khác vào những năm 1970. điều này đã đưa nghiên cứu khoa học phổ biến về ảo giác đến một sự dừng lại rít lên trong vài thập kỷ.
Mãi đến những năm 1990, nghiên cứu khoa học về ảo giác mới bắt đầu tiếp tục, với các nghiên cứu về thành phần hoạt chất trong "nấm ma thuật", psilocybin. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng psilocybin có thể giúp giảm bớt các triệu chứng trầm cảm, lo lắng và PTSD.
Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy kết quả đầy hứa hẹn cho việc sử dụng thuốc ảo giác trong điều trị nghiện. Một nghiên cứu thí điểm được thực hiện vào năm 2018 cho thấy một liều psilocybin duy nhất đã giúp 80% người tham gia bỏ thuốc lá và một nghiên cứu năm 2020 cho thấy một liều psilocybin duy nhất làm giảm sự phụ thuộc vào rượu ở 60% người tham gia.
Trong những năm gần đây, đã có một sự hồi sinhquan tâm đến ảo giác, được thúc đẩy một phần bởi nghiên cứu mới cho thấy chúng có thể có lợi ích điều trị. Vào năm 2020, FDA đã cấp chỉ định "Liệu pháp Đột phá" cho liệu pháp psilocybin để điều trị trầm cảm kháng thuốc, điều này sẽ đẩy nhanh sự phát triển và xem xét liệu pháp này.
Do đó, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng kêu gọi một cách tiếp cận tự do hơn để nghiên cứu và sử dụng ảo giác. Họ cho rằng những hạn chế hiện tại đối với nghiên cứu đang ngăn cản các nhà khoa học khám phá đầy đủ tiềm năng điều trị của các chất này.
Trong khi nghiên cứu hiện tại về ảo giác vẫn đang trong giai đoạn đầu, rõ ràng là những chất này có khả năng cách mạng hóa lĩnh vực tâm thần học và sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, điều quan trọng làđể lưu ý rằng ảo giác không phải là không có rủi ro và không nên được sử dụng mà không có sự giám sát y tế thích hợp.
Bất chấp những hạn chế hiện tại, ngày càng có nhiều người tiếp tục sử dụng ảo giác để phát triển cá nhân và khám phá tâm linh.
Tóm lại, ảo giác đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ cho mục đích tâm linh và y học. Họ đã trở nên phổ biến trong văn hóa Phương tây vào thế kỷ 20, với nhiều nhân vật đáng chú ý ủng hộ việc sử dụng chúng. Tuy nhiên, do lo ngại về an toàn, họ đã bị hình sự hóa vào những năm 1970 và nghiên cứu về tiềm năng điều trị của họ đã dừng lại. Trong những năm gần đây, đã có sự hồi sinh của sự quan tâm đến ảo giác, được thúc đẩy một phần bởi nghiên cứu mới cho thấy chúng có thể có lợi ích điều trị.